Bại não là căn bệnh nguy hiểm thường gặp ở trẻ em và có ảnh hưởng lâu dài về sau khiến cho trẻ không thể phát triển như những người bình thường. Ở trẻ sơ sinh, bệnh hầu như không thể phát hiện vì biểu hiện quá ít. Do đó, bạn nên đưa con đi khám sức khỏe thường xuyên để phòng tránh khả năng mắc bệnh.
Tổng quan về bệnh bạo não:
Bại não (hay liệt não) là thuật ngữ chỉ một nhóm tình trạng bệnh lý ảnh hưởng đến sự kiểm soát các vận động cũng như tư thế. Nguyên nhân là do một hoặc nhiều phần của bộ não có chức năng điều khiển cử động bị tổn thương nên người bệnh không thể cử động các cơ của mình một cách bình thường hoặc xuất phát từ những tai biến trong và sau khi sinh, các bệnh viêm nhiễm, vàng da... Triệu chứng diễn ra từ nhẹ tới nặng, gồm cả những dạng thức tê liệt. Những sự kiện xảy ra trong thời kỳ mang thai và gần thời điểm sinh có thể gây gián đoạn quá trình phát triển bình thường của bộ não và gây bại não sau này. Trong khoảng 70% trường hợp, bại não có thể là do những bất thường xảy ra trước sinh làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển bình thường của não. Khoảng 10% số trẻ bị bại não mắc phải sau khi sinh do những tổn thương não bộ xảy ra trong hai năm đầu đời.. Tỷ lệ mắc bại não trên thế giới khoảng 2 - 2,5/1.000. Đây là một trong những dạng tàn tật có tỷ lệ cao nhất, chiếm khoảng 1/3 tổng số tàn tật ở trẻ em. Tỷ lệ mắc bại não ở các nước đang phát triển chiếm đa số và bé trai thường mắc bại não nhiều hơn bé gái. Mặc dù các triệu chứng có thể thay đổi theo thời gian nhưng theo như định nghĩa thì bại não là một căn bệnh tĩnh, tức là không có chiều hướng biến đổi nặng thêm, vì thế nếu người bệnh càng ngày càng yếu đi thì nguyên nhân có thể là do một vấn đề nào khác chứ không phải là do bại não.
Bại não (hay liệt não) là thuật ngữ chỉ một nhóm tình trạng bệnh lý ảnh hưởng đến sự kiểm soát các vận động cũng như tư thế. Nguyên nhân là do một hoặc nhiều phần của bộ não có chức năng điều khiển cử động bị tổn thương nên người bệnh không thể cử động các cơ của mình một cách bình thường hoặc xuất phát từ những tai biến trong và sau khi sinh, các bệnh viêm nhiễm, vàng da... Triệu chứng diễn ra từ nhẹ tới nặng, gồm cả những dạng thức tê liệt. Những sự kiện xảy ra trong thời kỳ mang thai và gần thời điểm sinh có thể gây gián đoạn quá trình phát triển bình thường của bộ não và gây bại não sau này. Trong khoảng 70% trường hợp, bại não có thể là do những bất thường xảy ra trước sinh làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển bình thường của não. Khoảng 10% số trẻ bị bại não mắc phải sau khi sinh do những tổn thương não bộ xảy ra trong hai năm đầu đời.. Tỷ lệ mắc bại não trên thế giới khoảng 2 - 2,5/1.000. Đây là một trong những dạng tàn tật có tỷ lệ cao nhất, chiếm khoảng 1/3 tổng số tàn tật ở trẻ em. Tỷ lệ mắc bại não ở các nước đang phát triển chiếm đa số và bé trai thường mắc bại não nhiều hơn bé gái. Mặc dù các triệu chứng có thể thay đổi theo thời gian nhưng theo như định nghĩa thì bại não là một căn bệnh tĩnh, tức là không có chiều hướng biến đổi nặng thêm, vì thế nếu người bệnh càng ngày càng yếu đi thì nguyên nhân có thể là do một vấn đề nào khác chứ không phải là do bại não.
Bệnh bại não gây ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống |
Những nguyên nhân được biết đến gồm có:
- Sinh non có nguy cơ mắc bệnh bại não nhiều hơn những trẻ được sinh đủ tháng gấp 30 lần..
- Những nhiễm trùng trong thời kỳ mang thai như: rubella, vi-rút cự bào và toxoplasmosis (một chứng nhiễm trùng do ký sinh trùng nhẹ) có thể gây tổn thương não của bào thai và gây bại não sau này.
- Những biến chứng trong quá trình chuyển dạ và sinh nở, điển hình là ngạt do thiếu ô-xy chiếm 10 phần trăm trong những nguyên nhân gây bại não.
- Do bất đồng nhóm máu Rh giữa người mẹ và thai nhi có thể gây tổn thương não dẫn đến bại não.
- Thiếu ôxy rất dễ gây tổn thương não Tình trạng này xảy ra ở 1/500 trẻ sơ sinh, và có thể gây bại não, thậm chí tử vong (1/4 số trẻ ngạt ở mức trung bình sẽ bị bại não). .
- Bại não nhiều khi còn là hậu quả của ngộ độc cấp hoặc mãn tính (chì, kẽm, thủy ngân...) do nghề nghiệp hay môi trường sống của cha mẹ trước và trong khi mang tha
- Không có khả năng tự di chuyển, chăm sóc cơ thể.
- Khiếm khuyết về các giác quan như: giảm thị lực, thính lực, khả năng nhận biết,…
- Có thể bị động kinh và các vấn đề liên quan đến thần kinh.
- Bắp thịt mềm nhũn, không đi đứng được ngay ngắn.
- Có các động tác co gập, duỗi cứng các cơ một cách bất thường.
- Chậm phát triển,
- Trẻ sơ sinh mất phản xạ Monro khi đã ra đời được 6 tháng.
Các thể bại não:
- Bại não thể liệt cứng: Trong tổng số những người bị mắc bệnh bại não thì có đến 70 - 80 % số người bị mắc bệnh bại não thể liệt cứng với các cơ co cứng, cử động khó khăn. Khi cả hai chân đều bị liệt (liệt cứng hai chi dưới), đứa trẻ có thể gặp khó khăn khi đi bởi vì các cơ bó sát trong hông và chân làm cho hai chân chụm vào nhau và giao nhau tại đầu gối. Trong những trường hợp khác, chỉ một bên cơ thể bị liệt (liệt cứng nửa người), và cánh tay thường bị liệt nghiêm trọng hơn chân. Trường hợp nghiêm trọng nhất là liệt cứng tứ chi, trong đó cả bốn chi và thân người bị liệt và thường thì cả các cơ điều khiển mồm và lưỡi cũng bị liệt. Trẻ em bị liệt cứng tứ chi bị chậm trí và có những vấn đề khác.
- Bại não thể loạn động: Trong tổng số những người mắc bệnh bại não thì có khoảng 10 - 20% số người mắc bệnh bại não thể loạn động, căn bệnh gây ảnh hưởng tới toàn bộ cơ thể. Đây là thể bệnh được đặc trưng bằng sự thay đổi thất thường của trương lực cơ (lúc tăng, lúc giảm) và thỉnh thoảng có những cử động không kiểm soát được. Trẻ mắc bệnh này thường khó có tư thế ngồi hoặc dáng đi bình thường. Do các cơ điều khiển nét mặt và lưỡi cũng bị ảnh hưởng cho nên người bệnh cũng gặp khó khăn khi bú, nuốt và nói.
- Bại não thể thất điều: Trong tổng số những người mắc bệnh bại não thì có khoảng 5 - 10% số người mắc bệnh bại não thể thất điều, căn bệnh ảnh hưởng đến khả năng cân bằng tư thế và phối hợp động tác. Người bệnh có thể đi nhưng với một dáng điệu không vững và gặp khó khăn với những cử động cần phải có sự phối hợp chính xác, ví dụ như viết.
Cách điều trị:
Có thể xác định bệnh bại não bằng cách chụp hình cắt lớp, MRI, hay siêu âm não (siêu âm não chỉ dùng được khi xương não chưa hoàn toàn trưởng thành, chưa dính liền với nhau, hãy còn thóp). Thử nghiệm tâm lý bằng cách đo độ thông minh của trẻ cũng có thể giúp sớm chẩn đoán triệu chứng bệnh liệt não. Phương pháp điều trị Có nhiều phương pháp điều trị bại não như: vật lý trị liệu, thuốc uống, phẫu thuật chỉnh hình gân cơ, phong bế thần kinh bằng các chất hóa học. Vật lý trị liệu - Phục hồi chức năng: Tỷ lệ trẻ trở về bình thường sau tập luyện khoảng 20%, 60% phát triển được khả năng tự chăm sóc mình, 10% trẻ bị di chứng nặng nề không biến chuyển và 10% còn lại biến thiên. Tuy nhiên, cần phải kiên trì, nếu người nhà chăm sóc tốt, tập luyện thêm ở nhà, cháu bé sẽ tiến triển tốt hơn. Ngoài ra, phương pháp tiêm Toxin Botulinum tuýp A (tên thương mại Dyport) cũng khá khả quan vì ít tác dụng phụ, kết hợp tốt với các biện pháp điều trị khác, giảm bớt sự co thắt, gia tăng tầm vận động, cải thiện và nâng cao chất lượng sống cho trẻ.
Có nhiều cách để chữa bệnh bại não. Tuy nhiên, đây là bệnh nặng và không được chữa bằng những cách thông thường. Cần phải có những trang thiết bị và các loại thuốc đặc hiệu ở những cơ sở y tế. Đặc biệt, điều không thể thiếu đó chính là sự kiên trì và nghị lực từ chính bản thân người mang bệnh. Tốt nhất, các mẹ nên chủ động phòng tránh và luôn chú ý nhằm phát hiện để chữa trị kịp thời nhé.
Có nhiều cách để chữa bệnh bại não. Tuy nhiên, đây là bệnh nặng và không được chữa bằng những cách thông thường. Cần phải có những trang thiết bị và các loại thuốc đặc hiệu ở những cơ sở y tế. Đặc biệt, điều không thể thiếu đó chính là sự kiên trì và nghị lực từ chính bản thân người mang bệnh. Tốt nhất, các mẹ nên chủ động phòng tránh và luôn chú ý nhằm phát hiện để chữa trị kịp thời nhé.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét